Xã Khánh Hà – Thường Tín cung cấp nội dung các thông tin, dữ liệu thống kê liên quan đến đơn vị hành chính này và các địa phương cùng chung khu vực Thường Tín , thuộc Thành phố Hà Nội , vùng Đồng Bằng Sông Hồng
Xã Khánh Hà – Thường Tín cung cấp nội dung các thông tin, dữ liệu thống kê liên quan đến đơn vị hành chính này và các địa phương cùng chung khu vực Thường Tín , thuộc Thành phố Hà Nội , vùng Đồng Bằng Sông Hồng
Các bạn có thể tra cứu thông tin của các cấp đơn vị hành chính bằng cách bấm vào tên đơn vị trong từng bảng hoặc quay lại trang Thông tin tổng quan Việt Nam hoặc trang thông tin vùng Vùng Đông Bắc
Khánh Vân là một làng nhỏ ven sông Tô Lịch (chi lưu của sông Nhuệ) thuộc xã Khánh Hà, huyện Thường Tín (trước năm 1961 thuộc huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội). Khánh Vân là một vùng đất có bề dầy truyền thống lịch sử từ thời dựng nghiệp của Nhà hậu Lê cho đến những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo định hướng chủ nghĩa xã hội và đổi mới ngày nay.
Chi Họ Tô Xuân làng Khánh Vân còn giữ được 1 cuốn gia phả bằng chữ Hán do Tô Xuân Phương, cháu đời thứ 6 Chi trưởng viết năm Tân Hợi (1851) và cụ Nguyễn Bằng Đoàn ở phố Nguyệt Hồ, thị xã Hưng Yên dịch sang chữ quốc ngữ năm 1913.
Gia phả viết: Đời Thủy tổ, Cao tổ, Tằng tổ chỉ có một người - nghĩa là có 2 đời độc đinh; đến đời thứ tư có được 5 người con trai, chia thành 5 Phân chi. Gia phả liệt kê được tên từ Thủy tổ đến đời thứ 7; về 5 Phân chi, thì mang tên là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ. Thủy tổ Phúc Trung công húy là Lập sinh năm 1655. Như vậy họ Tô Xuân làng Khánh Vân đến 2015 đã có 360 năm lịch sử. Nếu chắp nối được đến Viễn tổ Phúc Kiêm phủ quân, Phúc Hòa phủ quân mà gia phả vẫn ghi ngày giỗ là 28 tháng chạp và 14 tháng tám thì thời gian còn dài hơn nữa.
Theo gia phả, sự tích tên làng Khánh Vân là do vua Lê Thái Tổ ban tặng. Trên đường tiến quân về Đông Đô, đóng quân ở Thanh Đàm (tên cũ của Thanh Trì, Hà Nội - vì Thường Tín xưa thuộc Thanh Trì) bỗng thấy điềm lạ là có áng mây kỳ lạ che trên quân doanh. Sau vua ban sắc cho xây đến thờ, đặt tên làng là Khánh Vân (mây lành).
Xem trong sơ đồ gia phả, thì vào năm 1851, chỉ tính đời thứ sáu và thứ bảy (là các thế hệ còn sống lúc đó) đã có trên 100 trai, gái (không có tên con dâu). Đáng tiếc là từ năm 1851 đến nay gia phả không được ghi tiếp để thể hiện sự phát triển của Chi họ, nhưng 5 Phân chi cũng có Chi viết tiếp được.
Dưới thời phong kiến, họ Tô Xuân là một Chi họ thành đạt. Đời thứ nhất đã xây được nhà thờ, đời thứ hai húy là Hiếu, hiệu là Phúc Tịnh công “ruộng đã có hơn 100 mẫu, giầu có vào bậc nhất, nổi tiếng ở làng”. Đời thứ ba húy là Nghị, tên là Tô Xuân Vụ, tự là Phúc Hòa, hiệu là Đôn Hậu phủ quân, khoa thi năm Bính Tý triều Cảnh Hưng thứ 17 (1756), ông và con trai thứ cùng đỗ tú tài làm quan đến chức Ngục Thừa. Ông chủ trương khuyến khích việc học của con cháu. Đến ngày giỗ Tổ họ tháng 9 có tổ chức khảo sát:
Về văn phải biết làm thơ thông thạo,
Về võ phải biết cưỡi ngựa múa đao…
Và dành ra một số ruộng tốt để cấp học điền: “Về văn từ Sinh đồ (tú tài) trở lên; về võ từ Biền sinh (tú tài võ) trở lên được cấp ruộng để tiếp tục học lên về sau nữa”.
Vì vậy, 5 người con trai ông đã có 3 người đỗ Tam trường (tú tài) đều làm quan triều Lê, riêng người con thứ ba thời Tây Sơn còn làm quanTri huyện Quỳnh Khối quản lý nghĩa quân. Con trai thứ tư có ba lần đỗ Biền Sinh; con trai thứ năm là Cai Hiệp triều Lê. Các đời sau đều có người đỗ đạt làm quan.
Người cháu đời thứ năm thuộc Chi 2, húy là Xuân Chuẩn, hiệu là Khánh Trì hai lần đỗ tú tài, ở nhà mở trường dạy học. Cùng dạy học với ông và thành bạn tâm giao có hai người nổi tiếng, đó là Phạm Đình Hổ và Phạm Quý Thích đều là người Hải Dương. Phạm Đình Hổ cùng đỗ tú tài với Khánh Trì tiên sinh nhưng có tài văn chương (tác giả Vũ Trung tùy bút), được vua Minh Mệnh mời vào cung phong chức Tế tửu. Phạm Quý Thích sau đỗ tiến sĩ năm 1779. Trong nhà thờ họ Tô Xuân hiện còn một đôi câu đối của Phạm Đình Hổ bên cạnh những đôi câu đối của nhiều bậc đại khoa.
Ngôi nhà thờ này xây từ đời Thủy tổ vào cuối thế kỷ 17. Đến năm Ảt Tỵ đời Thiệu Trị thứ 5 (1845) từ đường đã hư hỏng. Ông Tô Xuân Phương cháu đời thứ sáu Chi trưởng đã “xây lại năm gian từ đường trên nơi đất cũ”. Trong kháng chiến chống Pháp, từ đường bị đốt cháy. Hòa bình lập lại, năm 1962 được Tộc trưởng lúc đó là cụ Tô Xuân Doanh cháu đời thứ 15 xây lại. Đến năm 2005 nhà thờ đã xuống cấp lại được Tộc trưởng hiện nay, con trai cụ Tô Xuân Doanh là Tô Xuân Khánh (đời thứ 16) tổ chức xây lại rất khang trang (chi phí khoảng 100 cây vàng): Ban thờ, hoành phi, câu đối sơn son thiếp vàng rực rỡ. Nhiều câu đối cổ cách đây hàng trăm năm được phục chế.
Giới thiệu một số câu tiêu biểu:
Tô thủy phát nguyên trường, lịch thế bản chi tài hậu ấm.
Lung đàm lưu trạch tại, bách niên đống vũ yết dư huy.
Dòng nước sông Tô bắt nguồn dài trải qua nhiều đời, gốc và nhánh đều được bồi đắp phúc dầy.
Đầm Long nước còn chảy đó, trăm năm dường cột vẫn rạng ánh huy hoàng.
Chốn thành hoa vần thơ vẫn thầm lặng dưới bóng cây đường mùa hạ.
Trong khóm liễu, tiếng sáo vang ngát mùi hương hoa lệ ngạc.
(Đan Loan Tế tửu Phạm Đình Hổ kính soạn)
Những đôi câu đối của các bậc đại khoa, danh sĩ càng tôn thêm giá trị của ngôi từ đường vốn đã rất đẹp này.
Gia phả chỉ viết đến năm 1851 nên không biết được đầy đủ sự thành đạt của chi họ trong 100 năm tiếp theo (1851-1945).
Từ Cách mạng Tháng Tám 1945 đến nay, theo những người đương thời, chi họ vẫn tiếp nối và phát huy được truyền thống Tổ tiên.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Khánh Vân là một trong ba thôn kháng chiến của xã Khánh Hà (xã có 7 thôn) nên con cháu họ Tô Xuân đều tham gia kháng chiến. Tiêu biểu có cụ Tô Xuân Lãm (1907- 1999) là người đã vượt qua mọi thử thách, nhiều lần cất dấu cán bộ và tạo điều kiện cho bộ đội hoạt động trong những năm 1949 -1953.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chi họ Tô Xuân làng Khánh Vân có khoảng 60 người tham gia quân đội, công an và thanh niên xung phong, 7 người là thương, bệnh binh, có 12 liệt sĩ (thời kỳ kháng chiến chống Pháp có 10 liệt sĩ, thời kỳ kháng chiến chống Mỹ có 2 liệt sĩ). Có 10 người là sĩ quan cấp tá trong quân đội và công an, trong đó có 3 sĩ quan cao cấp.
Chi họ có 2 bà mẹ được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phong tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam Anh hùng, đó là:
1) Cụ bà Trần Thị Hành (1896-1983): có 2 con trai Tô Xuân Giang và Tô Xuân Lựu là liệt sỹ.
2) Cụ bà Tô Thị Nhu (1916- 2011): có chồng và con trai duy nhất đều là liệt sĩ.
Hiện nay chi họ Tô Xuân làng Khánh Vân có khoảng 150 hộ với hơn 750 nhân khẩu, trong đó có 120 hộ với 615 nhân khẩu đang sinh sống tại làng Khánh Vân (gồm 237 nam và 378 nữ), đồng thời còn có 25 hộ thoát ly nghề nông đang sinh sống tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, cùng với 12 hộ di cư lên sinh sống ở Phù Ninh (Phú Thọ) từ thời kháng chiến chống Pháp. Như vậy, Chi họ Tô Xuân là chi họ lớn nhất trong làng Khánh Vân (chiếm hơn 60% tổng số hộ trong làng).
Làng Khánh Vân còn có 4 Chi Họ Tô khác là Tô Văn, Tô Thế, Tô Đăng, Tô Quốc (có khoảng từ 10 đến 20 hộ). Các chi họ Tô này không cùng huyết thống với Họ Tô Xuân Khánh Vân, vì trong gia phả Chi họ Tô Xuân có con dâu đời thứ tư và đời thứ sáu là người Họ Tô cùng làng. Và ở làng Liễu Ngoại cùng xã Khánh Hà cũng có 1 Chi họ Tô Xuân với khoảng 40 hộ nhưng không có quan hệ huyết thống với Chi họ Tô Xuân Khánh Vân. Đây là vấn đề cần tìm hiểu thêm.
Những gia đình Họ Tô Xuân sinh sống tại làng chủ yếu bằng nghề nông nghiệp, như: trồng lúa, ngô, khoai, cà, đậu, dưa chuột, các loại rau và chăn nuôi gia cầm, gia súc. Con gái và con dâu làng Khánh Vân một thời nổi tiếng chăm chỉ, hay lam hay làm. Trong khoảng 30 năm gần đây, do quá trình đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, các hộ nông dân Chi họ Tô Xuân ở Khánh Vân có thêm nghề mộc, làm khung ảnh và nhận gia công cho những chủ kinh doanh đồ gỗ ở xã Nhị Khê gần đó. Trong quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế, có khoảng gần 30% số hộ chuyển sang làm thương mại, dịch vụ, vận tải, trong đó có một số trường hợp thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty tư nhân. Các hộ có mức sống ngày càng được nâng cao, hầu như không có hộ nghèo.
Hàng năm Chi họ đều có tổ chức sinh hoạt nhân ngày giỗ Tổ hoặc ngày Thanh Minh, thành lập Quỹ khuyến học và nêu gương các học sinh có thành tích học tập tốt và đạt kết quả cao trong các kỳ thi cuối cấp hoặc thi vào các trường Đại học, Cao đẳng.
Chi họ có 5 tiến sĩ, 5 cán bộ cấp vụ (viện), trong đó có Giáo sư - Tiến sĩ Tô Xuân Dân, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội và hơn 40 người có bằng thạc sĩ, cử nhân.
Có điều tốt đẹp là trải qua gần 400 năm với 18 đời con cháu, nhưng hầu hết con trai của dòng họ đều chỉ đệm một chữ Xuân (Tô Xuân). Đúng như mấy vần thơ sau:
Chữ Tâm, chữ Đức đặng lưu truyền,
(Trích bài GIA TỘC của Tô Xuân Anh)
Họ Tô Xuân làng Khánh Vân, được sự hướng dẫn và giúp đỡ của Ban Liên lạc Họ Tô Việt Nam và Ban Liên lạc Họ Tô Hà Nội, sẽ cố gắng sưu tầm tư liệu và viết tiếp gia phả từ 1851 đến nay làm tài liệu giáo dục con cháu giữ gìn và phát huy truyền thống của một Chi họ khá nổi tiếng vùng Hà Đông xưa và Hà Nội ngày nay.